Phát biểu tại Hội nghị, Tổng cục trưởng Tổng cục Dân số- Kế hoạch hóa gia đình (DS- KHHGĐ) Nguyễn Doãn Tú nhấn mạnh: Ngày Tránh thai Thế giới 26/9 có ý nghĩa như một chiến dịch toàn cầu, khơi dậy trách nhiệm của giới trẻ trong việc quan hệ tình dục an toàn, chủ động tránh thai, đồng thời khuyến khích tất cả mọi người chủ động hành vi mang thai vì những lợi ích của chính minh và cộng đồng.

Mục tiêu của Ngày Tránh thai Thế giới nhằm nâng cao nhận thức của mọi tầng lớp nhân dân, cộng đồng xã hội đặc biệt là giới trẻ, nhóm vị thành niên, thanh niên, phụ nữ và nam giới trong độ tuổi sinh đẻ về tất cả các biện pháp tránh thai để giúp họ có sự lựa chọn sáng suốt cho sức khỏe sinh sản.

q12-1664192133.jpg

Tổng cục trưởng Tổng cục DS- KHHGĐ Nguyễn Doãn Tú phát biểu tại Hội nghị hưởng ứng Ngày Tránh thai Thế giới 26/9.

Tại Việt Nam, ông Nguyễn Doãn Tú cho biết, trong những năm tới, số phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ (15-49 tuổi) vẫn tiếp tục gia tăng và dự báo sẽ đạt cực đại vào năm 2027- 2028. Nhu cầu sử dụng các phương tiện tránh thai tiếp tục tăng. Hệ thống y tế và dân số đã có nhiều cải thiện đáng kể trong việc cung cấp dịch vụ tránh thai cho người dân. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức và bất cập nên tỷ lệ mang thai ngoài ý muốn, cũng như phá thai còn rất đáng lo ngại.

Cụ thể, theo kết quả Điều tra các mục tiêu phát triển bền vững về phụ nữ và trẻ em Việt Nam 2020-2021 do Tổng cục Thống kê, Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc và Quỹ Dân số Liên hợp quốc (UNFPA) thực hiện thì tổng nhu cầu không được đáp ứng về kế hoạch hóa gia đình (KHHGĐ) đối với phụ nữ hiện đã kết hôn hoặc sống chung là 10,1%. Tỷ lệ này cao hơn so với 6,1% của Điều tra tương tự năm 2014. Đối với phụ nữ có quan hệ tình dục, chưa kết hôn hoặc không sống chung như vợ chồng, tổng nhu cầu KHHGĐ không được đáp ứng 40,7%, cao hơn nhiều so với phụ nữ đã kết hôn hoặc sống chung. Nhu cầu không được đáp ứng về KHHGĐ dẫn đến mang thai ngoài ý muốn và tỷ lệ phá thai cao. Mang thai ngoài ý muốn chiếm hơn một nửa số ca phá thai (53,6%). Tỷ suất phá thai là 68 ca trên 1.000 ca sinh ra sống.

Nghiên cứu đánh giá chất lượng dịch vụ KHHGĐ ở Việt Nam do UNFPA thực hiện năm 2016 cho thấy, phá thai lập lại còn khá phổ biến. Khoảng 74% phụ nữ cho biết đã từng phá thai trong cuộc đời của mình. Số lần phá thai trung bình là 1,5 lần một phụ nữ. Trong số những phụ nữ này, 72,1% đã từng phá thai một lần trong đời, 21,8% đã từng phá thai 2 lần và 5,1% đã từng phá thai ít nhất 3 lần trong đời.

Về tỷ lệ phá thai theo độ tuổi (ASAR), các ước tính trong Điều tra các mục tiêu phát triển bền vững về trẻ em và phụ nữ Việt Nam 2020-2021 cho thấy tỷ lệ phá thai cao nhất ở phụ nữ từ 25-29 tuổi (9 lần/1.000 phụ nữ), tiếp theo là nhóm từ 20-24 tuổi (7 lần/1.000 phụ nữ), rồi đến nhóm từ 30-39 tuổi (6 lần/1.000 phụ nữ). Nhóm vị thành niên từ 15-19 tuổi có tỷ lệ phá thai là 1 lần/1.000 phụ nữ (SDGCW Việt Nam 2020-2021).

Theo các chuyên gia dân số, thực hiện phá thai không an toàn trong điều kiện kém an toàn nhất có thể dẫn tới một số biến chứng như: sót thai gây rong huyết do không lấy hết toàn bộ phần phôi thai; rách cổ tử cung do thao tác thực hiện thô bạo, không đúng kỹ thuật gây viêm nhiễm. Trường hợp nặng hơn có thể gây băng huyết đe dọa đến tính mạng của thai phụ; tắc vòi trứng, viêm nội mạc tử cung do dụng cụ không được tiệt trùng tạo điều kiện cho vi khuẩn xâm nhập và có thể dẫn đến vô sinh; rối loạn kinh nguyệt hoặc không có kinh nguyệt do viêm dính tử cung; thủng tử cung; sốc do đau, do dùng thuốc trong quá trình thực hiện thủ thuật.

q11-1664192128.jpg

Các bạn trẻ tuyên truyền hưởng ứng Ngày Tránh thai Thế giới.

Tổng cục trường Tổng cục DS-KHHGĐ Nguyễn Doãn Tú nhấn mạnh: Nghị quyết số 21-NQ/TW về công tác dân số trong tình hình mới đã đặt ra mục tiêu đến năm 2030 “Duy trì vững chắc mức sinh thay thế (bình quân mỗi phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ có 2,1 con), quy mô dân số 104 triệu người. Mọi phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ đều được tiếp cận thuận tiện với các biện pháp tránh thai hiện đại; giảm 2/3 số vị thành niên và thanh niên có thai ngoài ý muốn”. Như vậy, Đảng ta đã xác định phải “duy trì mức sinh thay thế”, điều này có nghĩa là vẫn duy trì KHHGĐ, cung cấp đủ phương tiện tránh thai để đảm bảo “mỗi cặp vợ chồng có 2 con”, tức là “không thể từ bỏ KHHGĐ”. Vấn đề là cần tổ chức KHHGĐ theo phương thức mới, đó là “giảm sinh ở những tỉnh, thành phố có mức sinh cao; duy trì kết quả đã đạt được ở những tỉnh, thành phố đạt mức sinh thay thế; thực hiện mỗi cặp vợ chồng nên sinh đủ 2 con ở những nơi có mức sinh thấp”.

Từ những phân tích trên, lãnh đạo Tổng cục DS-KHHGĐ khẳng định, trong thời gian tới, việc thực hiện các mục tiêu về KHHGĐ vẫn tiếp tục là một trong các nội dung quan trọng của công tác dân số, đặc biệt là chú trọng nâng cao chất lượng dịch vụ KHHGĐ, đảm bảo đáp ứng đầy đủ và đa dạng các phương tiện tránh thai, xã hội hóa dịch vụ và các phương tiện tránh thai; đảm bảo tiếp cận dịch vụ thuận tiện, dễ dàng, giá cả phù hợp đối với các nhóm dân cư khác nhau, dần dần xóa bỏ khác biệt trong tiếp cận dịch vụ KHHGĐ giữa các vùng địa lý nhằm mang lại lợi ích cho toàn bộ người dân, đặc biệt là cho đồng bào dân tộc thiểu số và đồng bào hiện đang sinh sống tại các vùng sâu, vùng xa./