Hệ thống RPH có vai trò đặc biệt quan trọng để đảm bảo an ninh môi trường, song thực tế gần đây, các ban quản lý và chủ RPH gặp nhiều khó khăn trong việc duy trì hoạt động và quản lý đất, rừng được giao. Diện tích và chất lượng rừng phòng hộ có chiều hướng giảm sút, chịu tác động bất lợi bởi các hoạt động phát triển kinh tế-xã hội. Cùng với những hạn chế này, chính sách hưởng lợi từ quản lý bảo vệ rừng (BVR) nhằm tạo động lực cho việc bảo vệ rừng tự nhiên, phát triển rừng trồng và đảm bảo đời sống cho người dân sống gần rừng còn nhiều bất cập. Bên cạnh năng lực của các chủ rừng, tính khả thi của dòng vốn đầu tư cho RPH cần được làm rõ; tính bền vững, ổn định của nguồn thu chi trả dịch vụ môi trường rừng, nguồn ngân sách đầu tư, chuỗi cung ứng sản phẩm từ rừng trồng, chính sách kích cầu, cơ chế phối hợp, chia sẻ lợi nhuận giữa các đơn vị tư nhân, hộ gia đình với chủ rừng và nhà nước cũng là những khía cạnh cần được trao đổi nhằm hình thành chính sách và chiến lược phát triển phù hợp.

Ảnh minh họa nguồn internet
Vai trò của rừng phòng hộ tại Việt Nam.
Liên quan trực tiếp tới chức năng phòng hộ, ứng phó với các vấn đề môi trường và thiên nhiên, RPH ở nước ta được phân hạng theo mục đích sử dụng, đóng vai trò là tháp nước dự trữ, phòng hộ cho các sông suối, hồ đập, góp phần làm giảm xói mòn đất và giảm lũ lụt.
Là một quốc gia có nền khí hậu ẩm, với lượng mưa cao gấp 2.6 lần mức trung bình của các quốc gia châu Á, lại có địa hình đồi núi có độ dốc cao, từ 150 đến 750, tạo nên những dòng chảy nhanh, mạnh. Bên cạnh đó, đất nước cũng là nơi đón nhận nhiều trận bão, được coi là một trong 5 ổ bão lớn nhất thế giới, chiếm 37% lượng bão toàn cầu. Với địa hình và khí hậu đặc trưng, khả năng xảy ra sạt lở đất, lũ lụt và hạn hán hàng năm sẽ gây những tác động bất lợi đến đời sống con người.
Rừng phòng hộ bảo vệ gần 4 nghìn sông suối, trong đó, 2.360 có chiều dài trên 10 km; phòng hộ trên 385 hồ, đập của các công trình thuỷ điện, hàng trăm hồ tự nhiên, hàng nghìn đập thuỷ lợi và các nguồn nước công cộng, Rừng đương đầu với gió và bão, chắn gió, chắn cát bay cho trên 3 ngàn km bờ biển và cải thiện môi trường trên cát (hạ thấp nhiệt độ đất trung bình dưới đai rừng đến 1,3 C và nâng cao độ ẩm từ 2,1% đến 3,7%). Các khu rừng ven biển cũng góp phần hạn chế xâm nhập mặn và bảo vệ nước ngầm, giữ vai trò phòng hộ chắn sóng, lấn biển, chống sạt lở ven bờ, bảo vệ đê điều và các công trình xây dựng, Ngoài ra, rừng còn là giải pháp tích cực để bảo tồn đa dạng sinh học, phát triển các hệ sinh thái cả ở trên cạn lẫn ven biển, hải đảo; bảo tồn bản sắc văn hoá, bảo vệ tài nguyên rừng, ứng phó với biến đổi khí hậu và phòng chống hiện tượng khí hậu cực đoan (Nguyễn Quốc Dựng 2020)..
Theo mục tiêu bảo vệ, diên tích rừng bảo tồn phải đảm bảo được 17% tổng diện tích có rừng. Trong nhiều báo cáo môi trường, nước ta chỉ có 6,8%-7% diện tích là rừng bảo tồn. Từ đề xuất của các nhà khoa học và quản lý, đột phá chiến lược cần quan tâm là thống nhất 2 loại rừng đặc dụng (RĐD) và RPH thành một loại rừng bảo vệ (RBV) cho phù hợp với phân hạng quốc tế về các khu bảo tồn (KBT) toàn cầu. Nếu kết hợp được RĐD và RPH thành RBV, Viêt Nam có thể sớm đạt được mục tiêu bảo tồn đã cam kết.
Thực trạng và định hướng phát triển rừng phòng hộ ở Việt Nam
Luật Lâm Nghiệp 2017 quy đinh rõ nhiệm vụ của RPH. Những năm gần đây, Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách bảo vệ và phát triển rừng (BVPTR), trong đó, có hệ thống RPH. Quá trình thực thi mang lại những thành tựu ban đầu đáng ghi nhận, góp phần tích cực nâng cao độ che phủ rừng, tạo sinh kế cho người dân. Tuy nhiên, ở nhiều địa phương do mục tiêu phát triển kinh tế đã chuyển đổi rừng phòng hộ chắn sóng, chắn cát thành các khu chế xuất, nghỉ dưỡng hoặc chăn nuôi thủy sản, dẫn đến đai rừng giảm cả về diện tích và hạn chế chức năng phòng hộ vốn có. Theo thống kê, diện tích đất quy hoạch cho rừng phòng hộ tính đến năm 2020 đạt trên 4,618 triệu với 92.5% là rừng phòng hộ đầu nguồn
Việc xác lập chủ rừng đã được tiến hành trong suốt 5 năm qua. Đến nay, 78,3% diện tích RPH đã được giao cho các chủ quản lý, 21,7% diện tích còn lại do UBND cấp xã quản lý. Toàn quốc hiện có 11 nhóm chủ rừng, trong đó, Ban quản lý RPH chiếm tỉ lệ lớn nhất 46.3%.

Một khu rừng thuộc tiểu khu 136, BQL rừng phòng hộ Tam Giang 1, bị chặt trắng
Ở một số tỉnh Hạt kiểm lâm cũng được giao làm chủ rừng; nhiều địa phương đã sát nhập Ban quản lý RPH và Ban quản lý RĐD thành Ban quản lý RĐD-PH của tỉnh.
Khảo sát tại 12 Ban quản lý RPH, Quỹ Bảo vệ & Phát triển rừng (BV&PTR), Chi cục Kiểm lâm ở 6 tỉnh Bắc Trung Bộ cho thấy: Tiến độ và lộ trình thực hiện xây dựng phương án quản lý rừng bền vững(QLRBV) rất khác nhau. Tại Nghệ An, do vướng mắc về giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, hầu hết các Ban quản lý RPH đều chưa thể xây dựng được phương án quản lý RBV. Do hầu hết RPH là rừng tự nhiên, hoạt động của các Ban quản lý đều dựa vào nguồn thu từ chi trả dịch vụ môi trường rừng, kinh phí xây dựng phương án QLRBV còn hạn chế và chậm triển khai. Phần lớn các BQL là đơn vị sự nghiệp có thu, nguồn hoạt động từ ngân sách chỉ đảm bảo được một phần chi thường xuyên, không có kinh phí phục vụ điều tra rừng và các hoạt động hỗ trợ xây dựng phương án (Ngô Trí Dũng2020)..
Tại Hội thảo “Chính sách, đầu tư và phát triển bền vững hệ thống Rừng phòng hộ Việt Nam” được tổ chức ngày 13 tháng 10 năm 2020 tại Hà nội với sự tham gia của đông đảo đại biểu, đến từ Ban Kinh tế Trung ương Đảng; các dự án Lâm nghiệp, các Vụ chuyên ngành thuộc Tổng cục Lâm nghiệp, Ban quản lý RPH, Chi cục Kiểm lâm tỉnh, thành phố, các viện nghiên cứu, trường đại học; đại diện của các tổ chức quốc tế và cơ quan báo chí, truyền thông. Các; đại biểu đã cùng xem xét, thảo luận sâu những vấn đề về nhân sự và năng lực quản lý. Từ thực tế diễn ra, hội thảo cho rằng, công tác quản lý hiện nay mới chỉ tập trung vào bảo vệ diện tích, chưa chú trọng đến nâng cao chất lượng rừng hay tăng cường chức năng phòng hộ; nhiệm vụ, kế hoạch tài chính được xây dựng dựa vào nguồn chi trả hàng năm từ ngân sách chưa đáp ứng được yêu cầu khách quan và thực tế chức năng phòng hộ; nhiều đơn vị có tiềm năng liên doanh liên kết với các tổ chức kinh tế và doanh nghiệp, nhưng cơ chế phối hợp và chia sẻ lợi ích chưa rõ ràng, thiếu hướng dẫn cụ thể dẫn đến khó triển khai. Cho đến nay, công tác quản lý bảo vệ RPH được tăng cường, song vẫn còn những bất cập, phổ biến đó là:
(i) Chưa tiến hành phân định, cắm mốc ranh giới rõ ràng. Đây là một trong những nguyên nhân gây lấn chiếm đất và mất rừng, đặc biệt là tại khu vực Tây Nguyên;
(ii) Đời sống người dân khó khăn, trong khi nguồn lợi từ rừng tự nhiên lại rất lớn;
(iii) Chế độ đối với lao động bảo vệ rừng thấp trong khi rủi ro phải đối đầu lại cao;
(iv) Các Ban quản lý RPH nằm rải rác ở vùng sâu, vùng xa, ít thông tin, khó tiếp cận được nguồn đầu tư; mặt khác, ngân sách cho rừng còn hạn hẹp (ngân sách hỗ trợ tối đa 30tr/ha cho trồng rừng, trong khi suất đầu tư tại các khu vực thuận lợi đã cao gấp 3 lần, tới 90tr/ha).
Quan điểm phát triển lâm nghiệp trong thời gian tới đã hướng vào hạn chế việc chuyển đổi đất rừng tự nhiên sang những mục đích khác, đồng thời với nghiên cứu, khai thác hợp lý RPH thuộc loại rừng trồng, nhằm đảm bảo mục tiêu phòng hộ và phát triển kinh tế cho cộng đồng sống gần rừng. Chiến lược lâm nghiệp đề xuất nhà nước cần tăng cường đầu tư cho RPH thay vì chính sách trước đây chỉ là hỗ trợ. Phải coi RPH là một tài sản quốc gia để có kế hoạch bảo tồn phù hợp. Bên cạnh nguồn vốn hỗ trợ của nhà nước, cần quan tâm đến giải pháp huy động nguồn lực đầu tư xã hội cho mục tiêu này. Theo đó
(i).Các địa phương cần rà soát diện tích cần thiết để phòng hộ; từ đó tích hợp vào quy hoạch của tỉnh và quy hoạch lâm nghiệp quốc gia.
(ii).Triển khai xây dựng phương án QLRBV, các nội dung như phát triển du lịch sinh thái, trồng dược liệu dưới tán rừng cần được đưa vào phương án QLRBV để triển khai thực hiện,
(iii). Xác lập quyền sở hữu cho chủ rừng và cắm mốc ranh giới để phục vụ công tác quản lý, theo dõi, thống kê và kiểm kê;
(iv) . Củng cố, kiện toàn lực lượng bảo vệ để phối hợp cùng các cơ quan địa phương bảo vệ rừng trong bối cảnh RPH nằm xen kẽ trong khu dân cư và có nguy cơ bị xâm lấn, triệt phá ;
(v) Xây dựng dự án ưu tiên và có chính sách đầu tư cho hệ thống RPH.
(vi) Xây dựng định mức kinh tế kỹ thuật để hỗ trợ các BQLvà hệ thống quản lý nhà nước thực hiện hoạt động công ích đồng thời với rà soát, điều chỉnh đơn giá chi trả DVMTR nhằm tái đầu tư cho RPH.
Thay lời kết luận
Đóng góp ý kiến vào dự thảo Chiến lược phát triển lâm nghiệp Việt Nam giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050,các nhà nghiên cứu thuộc Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PanNature) cho rằng “rừng vừa là tài nguyên, vừa là tư liệu sản xuất” cần được cụ thể hóa thành 2 mục tiêu bảo tồn thiên nhiên và phát triển kinh tế lâm nghiệp. Mục tiêu bảo tồn dành cho đối tượng rừng phòng hộ và rừng đặc dụng. Còn mục tiêu phát triển kinh tế lâm nghiệp dành cho đối tượng là rừng sản xuất.
Nhằm hỗ trợ quá trình hoạch định chính sách lâm nghiệp, đặc biệt đối với hệ thống rừng phòng hộ, các tổ chức xã hội nghề nghiệp và các nhà khoa học tâm huyết với với bảo vệ môi trường và cuộc sống, đã có nhiều đóng góp cụ thể với kỳ vọng góp phần vào xây dựng chính sách đầu tư và phát triển bền vững hệ thống rừng phòng hộ Việt Nam. Hy vọng tiếng nói của tổ chức xã hội dân sự trong những diễn đàn trao đổi sẽ được các nhà quản lý quan tâm trong hoạch định chính sách quản lý rừng và đất rừng, tạo động lực cần thiết để thay đổi hành vi gây mất rừng hoặc làm suy thoái rừng phòng hộ
Địa chỉ liên lạc
Lê Thành Ý 19b/668 Đường Lạc Long Quân, Quận Tây Hồ Hà Nội
Phone: 0829848231
Email lethanhy05@gmail.com