Với đà tăng trưởng này, triển vọng trung hạn của Việt Nam mang nhiều hứa hẹn. Cùng với phân tích về xu hướng gần đây của nền kinh tế, với tiêu đề "Từ COVID-19 đến biến đổi khí hậu: Làm thế nào để Việt Nam trở thành quốc gia tiên phong trong phục hồi xanh", ấn phẩm kỳ này đã đưa ra câu hỏi tại sao Việt Nam lại chưa xử lý những thách thức về khí hậu và môi trường hiệu quả như với khủng hoảng COVID-19? và đưa ra một số thông điệp đáng quan tâm. Trong lễ công bố báo cáo, các chuyên gia trong nước và quốc tế đã đánh giá sức chống chịu của nền kinh tế Viêt Nam trước tác động tàn phá của đại dịch, đưa ra những dự báo về xu hướng phục hồi xanh. Đăc biệt cùng thảo luận, chia sẻ cách làm để áp dụng thành công kinh nghiệm khống chế dịch Covid-19 vào xử lý vấn đề ô nhiễm môi trường và biến đổi khí hậu, Bài viết đề cập tới những nội dung cốt lõi từ những thông điệp này.

Hình ảnh về chủng vius Corona mới

Ấn tượng Việt Nam về kiềm chế dịch bệnh Covid-19 và phát triển nền kinh tế

Đại dịch Covid-19 đang tiếp tục tàn phá y tế toàn cầu và các nền kinh tế chưa có dấu hiệu dừng lại. Hạ tuần tháng 12 năm 2020, toàn thế giới đã có trên 79 triệu ca nhiễm bệnh và số tử vong đã vượt qua con số 1,7 triệu người. Phần lớn các quốc gia phát triển, thị trường mới nổi và những nền kinh tế đang phát triển đều phải vật lộn với làn sóng lây nhiễm thứ hai ở những mức độ khác nhau. Đại dịch đã tác động nghiêm trọng đến nền kinh tế toàn cầu với dự báo suy giảm chừng 4,4% trong năm 2020, Trong đó, GDP Hoa Kỳ giảm 4,3% và cộng đồng châu Âu (EU) giảm tới 8,3%. Tỷ lệ đói nghèo trên toàn cầu lại một lần nữa gia tăng, xóa đi những kết quả nhân loại đã nỗ lực phát triển trong hàng thập kỷ qua với khoảng từ 88 đến 115 triệu người có thể rơi vào cảnh nghèo cùng cực trong năm 2020.

Trái ngược với những diễn biến y tế và kinh tế ảm đạm toàn cầu, Việt Nam  là một trong số ít nền kinh tế đã thể hiện được năng lực kiểm soát dịch bệnh lây lan, đồng thời vẫn duy trì được khả năng chống chịu đáng kể của nền kinh tế trước những cú sốc của đại dịch. Việt Nam không chỉ dập tắt được sự lây lan của dịch bệnh trong cộng đồng mà còn đạt được số ca nhiễm bệnh và tử vong ở mức thấp nhất (tính đến ngày 23  tháng 12 năm 2020, trong cả nước có 1.421 trường hợp nhiễm bệnh và 35 ca tử vong).

Trong thông cáo báo chí phát hành cùng ngày 21 tháng 12, W.B cho rằng, Việt Nam có được những kết quả nổi bật về phát triển kinh tế là nhờ vào khả năng chống chịu của cả khu vực kinh tế trong nước và kinh tế đối ngoại. Không những kiềm chế được đại dịch bằng những biện pháp sớm, quyết liệt và sáng tạo, Chính phủ Việt Nam còn sử dụng các chính sách tài khóa và tiền tệ để tháo gỡ khó khăn cho khu vực tư nhân và thúc đẩy phục hồi. Đặc biệt, chi tiêu công bắt đầu tăng trở lại sau ba năm thắt chặt tài khóa. Trong chín tháng đầu năm 2020, giải ngân vốn đầu tư công đã tăng đến 40% so với cùng kỳ năm trước.

Khu vực kinh tế đối ngoại, động lực tăng trưởng chính trong thập kỷ qua đã đạt kết quả tốt đẹp kể từ khi khủng hoảng COVID-19 bắt đầu. Việt Nam dự kiến sẽ đạt mức xuất khẩu hàng hóa thặng dư lớn nhất từ trước đến nay đồng thời với gia tăng dự trữ ngoại hối. Cùng với dự trữ ngoại hối, dòng vốn đầu tư nước ngoài tiếp tục đổ vào Việt Nam kết hợp với xuất khẩu hàng hóa tăng mạnh, đã bù đắp cho thất thu về ngoại tệ do hoạt động du lịch suy giảm và nguồn kiều hối bị thu hẹp. Báo cáo cho biết, các nhà đầu tư nước ngoài vẫn tiếp tục đầu tư hoặc dịch chuyển các hoạt động sản xuất sang Việt Nam. Trong thời gian tới, với giả định khủng hoảng COVID-19 dần được kiểm soát và vắc-xin COVID-19 chứng minh được tính hiệu quả, triển vọng đối với Việt Nam được cho là tích cực, khi nền kinh tế được dự báo tăng trưởng ở mức 6,8% trong năm 2021 và sẽ ổn định quanh mức 6,5% những năm tiếp theo. Mặc dù có những thành công ấn tượng, song W.B vẫn thận trọng cho rằng, Việt Nam vẫn còn tiềm tàng những rủi ro tài khóa, tài chính và xã hội, đòi hỏi các cấp có thẩm quyền cần quan tâm nhiều hơn.

Đánh giá về thành công đạt được trong kiềm chế dịch bệnh và khôi phục kinh tế, W.B nhấn mạnh đến thanh công gần như độc nhất vô nhị trên thế giới của Việt Nam trong khủng hoảng. Theo tất cả các chuẩn mực, Việt Nam đã và đang kiểm soát rất tốt khủng hoảng COVID-19 với số ca nhiễm bệnh và tử vong chỉ ở mức tối thiểu. Cho dù phải thực hiện biện pháp giãn cách xã hội nghiêm ngặt và đối mặt với một cuộc suy thoái kinh tế toàn cầu chưa từng có tiền lệ, nền kinh tế Việt Nam dự kiến vẫn tăng trưởng 2,8% trong năm 2020. Tuy kết quả thấp hơn khoảng 4,2% so với mức đạt được của năm 2019, song Việt Nam vẫn nằm trong vùng tăng trưởng dương và khả năng chống chịu của nền kinh tế được lý giải qua diễn biến của hoạt động trong nước và đối ngoại.

Chỉ sau ba tuần cách ly toàn xã hội vào tháng 4, hầu hết các hoạt động công nghiệp và dịch vụ của Việt Nam đều được khôi phục do người tiêu dùng trong nước và các nhà đầu tư đã lấy lại được niềm tin. Không chỉ khu vực tư nhân phản ứng tích cực với động thái từng bước nới lỏng giãn cách xã hội mà cả Chính phủ cũng đã nhạy bén thay đổi định hướng chính sách tài khóa để hỗ trợ phục hồi kinh tế. Sau ba năm củng cố tài khóa, các cấp có thẩm quyền đã ban hành những biện pháp dứt khoát và đẩy nhanh tiến độ giải ngân vốn đầu tư công,với  tổng vốn giải ngân từ tháng 1 đến tháng 9 năm 2020 tăng 40% so với cùng kỳ năm trước.

Đi cùng những quyết sách của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước  Việt Nam (NHNN) đã ban hành chính sách tiền tệ nới lỏng và các biện pháp tài chính tạm thời nhằm tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp và người dân bị ảnh hưởng, giống như hầu hết ngân hàng trung ương khác.

Khu vực kinh tế đối ngoại là động lực tăng trưởng chính, khi Việt Nam  đã hội nhập sâu với độ mở của nền kinh tế lên tới 200%. Thành tích đạt được rất ngoạn mục trong giai đoạn khủng hoảng COVID-19 được thể hiện không chỉ bằng giá trị xuất siêu hàng hóa cao nhất từ trước đến nay,mà còn ở chỗ Việt Nam đã tích lũy được một lượng dự trữ ngoại hối lớn đủ để nhập khẩu 4 tháng. Những diễn biến tích cực này là điều khó có thể ngờ tới ở giai đoạn đầu của khủng hoảng COVID-19. Tại thời điểm đó, Việt Nam được cho là có nguy cơ bị tổn thương cao trong điều kiện kinh tế toàn cầu bị suy thoái và đóng cửa biên giới.

Mặc dù hạn chế nhập cảnh đối với khách du lịch quốc tế làm giảm thu nhập bằng ngoại tệ của ngành du lịch, và kiều hối , giảm khoảng 7,8% trong năm 2020, nhưng các nhà đầu tư nước ngoài vẫn tiếp tục chọn Việt Nam là điểm đến đầu tư và kim ngạch xuất khẩu hàng hóa trong 10 tháng đầu năm 2020 tăng 4,8% so với cùng kỳ năm 2019. Theo các nhà phân ích, kiểm soát tốt khủng hoảng COVID-19 chính là công cụ quảng bá tốt nhất cho Việt Nam, là cách để khuyến khích doanh nghiệp nước ngoài chuyển hoạt động sản xuất từ những nước nhà máy của họ vẫn bị đóng cửa, sang Việt Nam, góp phần đem lại kết quả xuất khẩu vững chắc.

Theo W.B, thời gian tới, khủng hoảng COVID-19 toàn cầu từng bước được kiểm soát, đặc biệt thông qua điều chế thành công vắc-xin, triển vọng của Việt Nam khả lạc quan. Nền kinh tế được dự báo sẽ tăng trưởng 6,8% trong năm 2021, sau đó sẽ ổn định quanh mức 6,5%. Trong kịch bản cơ sở trên đây, khi phục hồi kinh tế được củng cố, chính sách tài khóa và tiền tệ được ban hành nhằm ứng phó với khủng hoảng dự kiến sẽ được gỡ bỏ. Chính sách tiền tệ sẽ lại quay về với cách tiếp cận an toàn để cân bằng giữa hỗ trợ tăng trưởng kinh tế và kiểm soát lạm phát, đồng thời theo dõi chặt chẽ sức khoẻ của khu vực tài chính.

Củng cố tài khóa là bước đi cần thiết để duy trì nợ công ở mức bền vững, song các cấp có thẩm quyền vẫn cần cải thiện kết quả thu ngân sách để đảm bảo nguồn thu cho nhu cầu chi dự kiến tăng lên về cơ sở hạ tầng và các dịch vụ xã hội có chất lượng mà đất nước sẽ cần đến.

Bên cạnh đó, các mục tiêu tài khóa tổng thể có thể được hỗ trợ thông qua nâng cao hiệu suất chi tiêu NSNN ở cả trung ương và địa phương. Theo đó, Hợp tác công-tư cũng là cách giúp thu hút vốn và nâng cao chất lượng dự án đầu tư, thông qua chuyển giao công nghệ và cải thiện khung quản trị.

Cho đến nay, quy mô, thời gian hoành hành cũng như tác động kinh tế của đại dịch Covid-19 còn khó dự đoán; song trong trường hợp thế giới và Việt Nam, phải hứng chịu những làn sóng COVID mới, khả năng phục hồi của nền kinh tế  sẽ ở mức thấp và việc đưa nền kinh tế quay trở lại xu hướng tăng trưởng và củng cố tài khóa như trước COVID-19 sẽ diễn ra chậm hơn dự kiến.Trong tình hình bất định của đại dịch, Việt Nam còn phải đối mặt với nhiều rủi ro tài khóa, tài chính và xã hội cụ thể là: Kể từ đầu cuộc khủng hoảng COVID-19, Chính phủ thu ngân sách nhà nước (NSNN) ít hơn (giảm 10,8%), nhưng chi tiêu nhiều hơn (tăng 8,1%). Theo đó, trung bình mỗi tháng NSNN thâm hụt khoảng 1 tỷ USD. Chính sách ứng phó cần thiết để hồi phục kinh tế đến nay vẫn dựa vào lượng tồn ngân Chính phủ tích lũy được trước khủng hoảng COVID-19. Nếu chính sách hỗ trợ kéo dài hơn nữa, Chính phủ phải tìm kiếm nguồn tài chính mới, điều này đòi hỏi phải có những cải cách trong quản lý tài chính công, thu thuế, nợ, và cả quản lý tài sản.

Do tác động của đại dịch mang tính gián tiếp, là hệ quả của tình trạng khu vực, kinh tế thực trở nên xấu đi, nên cần có thời gian để được bộc lộ. Khu vực tài chính, nhất là các ngân hàng thương mại, cũng không thể miễn nhiễm với khủng hoảng COVID-19. Nguy cơ cao nhất của khu vực này là khách hàng không có khả năng chi trả và số  nợ sẽ dần tăng lên.

Theo đánh giá của W.B,Việt Nam là quốc gia có tỷ lệ tín dụng ngân hàng (so với GDP) thuộc hàng cao nhất thế giới, đây là rủi ro cần được quan tâm,theo dõi sát sao. Bên cạnh đó, một số ngân hàng có tiếp xúc với những ngành nghề dễ bị tổn thương trong khủng hoảng không giới hạn của ngành du lịch và vận tải. Rủi ro cần được giảm nhẹ thông qua cải thiện chất lượng của cơ quan tiền tệ, ổn định lợi nhuận của các ngân hàng, đồng thời khuyến khích vốn hóa ở một số ngân hàng chưa đáp ứng được các yêu cầu an toàn theo chuẩn Basel II.

Về mặt xã hội, rủi ro có thể phát sinh khi người dân và doanh nghiệp  gặp những căng thẳng về tài chính do đại dịch COVID-19 gây ra. Nhìn tổng thể, nền kinh tế Việt Nam đã phản ứng tốt trước những cú sốc, với tỷ lệ thất nghiệp và số doanh nghiệp hoạt động gần sát mức trước khủng hoảng. Tuy nhiên, cũng như các cuộc khủng hoảng khác, luôn có kẻ được và người mất. Theo những kết quả điều tra,khoảng 1/3 hộ gia đình Việt Nam bị giảm thu nhập do đại dịch trong tháng 7,8. Trong số người bị thiệt hại, khoảng 2,5 triệu không có thu nhập hoặc chỉ có thu nhập chưa bằng 1/2 trước đây. Đáng lưu ý là, phần lớn trong số này không phải là đối tượng của các chương trình xã hội hiện hành, họ có nguy cơ bị bỏ lại phía sau.

Theo các nhà phân tích, nếu những rủi ro được quản trị tốt, Việt Nam có thể vươn lên mạnh mẽ hơn cả trước khi có khủng hoảng COVID-19. Kiểm soát đại dịch xuất sắc giúp Việt Nam tạo thế cạnh tranh tốt hơn so với nhiều đối thủ và để lại dấu ấn tốt đẹp trong nền kinh tế toàn cầu nhờ chiếm được tỷ trọng cao trong thương mại và thu hút được vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Tiến trình phát triển số cũng được đẩy nhanh, với trên một nửa số doanh nghiệp trong nước sử dụng các công cụ và nền tảng số nhiều hơn. Số lượng dịch vụ công trực tuyến của Chính phủ trên Cổng Thông tin Quốc gia cũng tăng 11 lần trong giai đoạn từ tháng 3 đến tháng11. Những động thái này đang hướng tới hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế thế giới và phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội số hóa trong giai đoạn 2021–2030.

Từ thực tiễn diễn ra của đất nước, các nhà hoạch định chính sách ngày càng nhận thức được rằng, tương lai đòi hỏi phải quan tâm nhiều hơn đến quản lý tài nguyên thiên nhiên quốc gia, và gia tăng quản trị rủi ro khí hậu. Đây cũng là những mối đe dọa trực tiếp đối với khát vọng trở thành nền kinh tế thu nhập cao của Việt Nam. Mặc dù đã có cam kết ở mức độ cao, nhưng tiến triển cụ thể đạt được trong lĩnh vực này vẫn còn mờ nhạt. Theo các nhà phân tích, thách thức chính của Việt Nam trong giai đoạn tới là phải triển khai thực hiện mạnh mẽ những cải cách, đầu tư và chính sách xử lý những thách thức về môi trường và biến đổi khí hậu trên tinh thần phải khẩn trương hơn.

Thông điệp rút ra từ COVID-19 cho nghị trình môi trường và biến đổi khí hậu.

Trong những ngày cuối năm 2020, hầu hết người dân Việt Nam phải đeo khẩu trang không chỉ vì phòng chống dịch bệnh Covid-19 mà còn do không khí bị ô nhiễm năng,  Mức độ  ô nhiễm ở các thành phố lớn như Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh đã cao gấp 4 lần so với mức an toàn theo khuyến cáo của các tổ chức quốc tế. Đáng tiếc là Chính phủ đã làm rất tốt việc kiểm soát đại dịch lớn nhất trong thời đại, song Việt Nam vẫn dễ bị tổn thương trước những tai ương về y tế và môi trường.

Bên cạnh ô nhiễm không khí là nguyên nhân gây tử vong cho khoảng 60.000 người mỗi năm, Việt Nam còn phải hứng chịu xói lở bờ biển, hạn hán, xâm nhập mặn và sạt lở đất. Những trận bão, lũ mới đây ở miền Trung đất nước đã làm hơn 240 người chết và mất tích, nửa triệu ngôi nhà bị hư hỏng hoặc bị hủy hoại là những lời nhắc nhở đau lòng về sự mong manh dễ bị tổn thương trước những hiểm họa môi trường và BĐKH.

Biến đổi khí hậu đe dọa an ninh môi trường

Trong ¼ thế kỷ vừa qua, Viêt Nam đã trở thành câu chuyện thành công về phát triển kinh tế

Thu nhập hộ gia đình tăng gấp 4 lần, tỷ lệ nghèo cùng cực từ 50% giảm xuống còn 2%. Nhiều tiến bộ vượt bậc đã được thực hiện để đem lại sức sống cho khu vực kinh tế tư nhân; những tiến triển đạt được cùng với xu hướng thuận lợi trong nước và toàn cầu với lực lượng lao động dồi dào đã mang lại những cải thiện đáng kể trong hầu hết các chỉ số về năng suất, vốn và nhân lực cũng như khả năng tiếp cận dịch vụ cơ bản. Tuy nhiên, thành công đạt được đã phải trả giá về vốn tự nhiên. Viêt Nam đã phải dựa nhiều vào nguồn tài nguyên; Tận dụng lợi thế nông nghiệp, khoáng sản và tài nguyên phong phú để thúc đẩy tăng trưởng nhanh đã dẫn đến các mô hình phát triển dần trở nên thiếu bền vững, khiến ngày càng nhiều người dân và tài sản quốc gia phải hứng chịu những hiện tượng thời tiết bất lợi. Theo ước tính, tổn hại về môi trường cả nước hàng năm từ 4% đến 8% GDP. Đến nay, Việt Nam vẫn nằm trong nhóm 6 nước dễ bị ảnh hưởng nhất bởi BĐKH, là 1 trong 9 quốc gia có ít nhất 50 triệu người phải hứng chịu tác động của BDKH. Mực nước biển dâng cao, sóng dâng do bão kết hợp cùng thay đổi lượng mưa đã làm chậm,thậm chí đảo ngược thành quả phát triển đạt được.

Mặc dù chỉ đóng góp một lượng nhỏ vào khí nhà kính toàn cầu, nhưng lượng phát thải của Việt Nam đã tăng gấp 5 lần kể từ năm 2000. Với nhu cầu năng lượng cao gấp 1,5 lần so với nhịp độ tăng trưởng GDP, chất lượng không khí đã bị xấu đi rất nhanh. Ô nhiễm không khí đã gây ra thiệt hại tương đương với 60.000 ca tử vong trong năm, đã tạo thêm gánh nặng lớn cho hệ thống y tế. Thách  thức thiên tai đã trở thành ưu tiên hàng đầu của các nhà hoạch định chính sách; rủi ro tiên tai và BĐKH ngày nay được thừa nhận là mối đe dọa cho khát vọng đưa Việt Nam trở thành nước có thu nhập cao.

Trong ấn bản Điểm lại của năm 2020¸ sau khi mô tả những xu hướng gần đây của nền kinh tế W.B đã nhấn mạnh vì sao Nhà nước Việt Nam chưa  xử lý được những thách thức về môi trường và khí hậu một cách hiệu quả như kiểm soát khủng hoảng COVID-19?  Giới nhà phân tích cho rằng, những vấn đề gợi ra tuy có sự khác biệt của 2 lĩnh vực, nhưng lại có nhiều điểm tương đồng. Bài học thành công từ kinh nghiệm triển khai các biện pháp đúng đắn vào đúng thời điểm của khủng hoảng COVID-19 cần được quan tâm vì nó có thể truyền cảm hứng cho các nhà hoạch định chính sách thực hiện những cam kết giải quyết thách thức về môi trường và biến đổi khí hậu.

Trước hết, việc kiểm soát thành công đại dịch Covid-19 cho thấy, cần phải chuẩn bị sẵn sàng, hành động sớm và mạnh dạn. Thứ hai, ngoài tầm nhìn và năng lực thì khả năng tạo cơ hội cho thử nghiệm và đổi mới sáng tạo cũng là cách làm hiệu quả để thay đổi hành vi con người. Đó cũng là yếu tố căn bản trong nỗ lực đối phó với mối đe dọa về y tế và BĐKH.

Việt Nam đang đứng trước ngã rẽ để phục hồi sau COVID-19; đất nước cần lựa chọn giữa lộ trình như trước đây hoặc lộ trình khôi phục theo hướng xanh để giúp xử lý tác động của đại dịch hoặc rủi ro thiên tai và biến đổi khí hậu để nâng cao khả năng chống chịu trong tương lai. Kinh nghiệm kiềm chế đại dịch COVID-19 của Việt Nam có thể truyền cảm hứng cho các quốc gia khác trong công cuộc chống lại đại dịch, đồng thời cũng chỉ ra những bài học có thể áp dụng cho các thách thức về môi trường và BĐKH.  Các cú sốc về y tế và khí hậu, tuy khác nhau về tác động đến đời sống con người và cơ cấu kinh tế, nhưng cũng có nhiều nét tương đồng. Thiệt hại phải gánh chịu sẽ còn lớn hơn nếu không ai hành động, và cả hai thách thức này đều đòi hỏi phải có sự thay đổi đáng kể hành vi của cá nhân và tập thể.

Bài học đầu tiên từ COVID-19 là để đối phó tốt nhất với cú sốc từ bên ngoài, cần có sự chuẩn bị sẵn sàng từ trước, phải hành động sớm và mạnh dạn. Có thể nói, Việt Nam đã sẵn sàng để đối mặt với đại dịch. Dựa vào kinh nghiệm đối phó với các mối đe dọa dịch bệnh do vi-rút gây ra trước đó, mức độ sẵn sàng của hệ thống y tế Việt Nam đã được chuẩn bị từ cuối năm 2019 tốt hơn so với các quốc gia tương đồng và gần sát với hầu hết các nền kinh tế có thu nhập trung bình cao. Việt Nam là một trong những quốc đầu tiên đóng cửa biên giới và trường học  ngay từ cuối tháng 1 năm 2020. Trên cơ sở kinh nghiệm rút ra, Việt Nam  có khả năng hành động nhanh và chuẩn bị sẵn sàng dể trở thành quốc gia tiên phong trong phục hồi xanh sau đại dịch COVID-19.

Trở thành quốc gia tiên phong trong khôi phục xanh, Việt Nam sẽ đạt được nhiều mục đích. Ngoài những lợi ích rõ rệt về môi trường gắn liền với phục hồi xanh, chính sách xanh và đầu tư xanh sẽ tạo thêm nhiều việc làm, thúc đẩy hoạt động kinh tế và giúp khôi phục dư địa tài khóa. Đây cũng là quyết định thông minh vì nhiều tập đoàn đa quốc gia ở Việt Nam đang ngày càng quan tâm đến các chính sách xanh, xuất phát từ trách nhiệm của chính doanh nghiệp với khách hàng. Đây là lĩnh vực được kỳ vọng sẽ đóng vai trò then chốt trong sự nghiệp phát triển của Việt Nam trong tương lai.

Trong phần báo cáo chính, W.B đã khuyến nghị một số chính sách và hành động, đồng thời giới thiệu những thông lệ tốt nhất, với những ví dụ cụ thể trong lĩnh vực năng lượng tái tạo, phát triển du lịch, phát triển không gian đô thị và khu công nghiệp.

Bài học thứ hai là về cơ chế triển khai thực hiện. Đối phó với đại dịch COVID-19, các cấp có thẩm quyền của Việt Nam phải đối mặt với những thách thức chưa từng có tiền lệ trong nhiều thập kỷ. Họ buộc phải ban hành và triển khai thực hiện những quyết định cần thiết dưới áp lực nặng nề, đòi hỏi phải có tầm nhìn chung, năng lực cũng như động lực để thử nghiệm và đổi mới sáng tạo. Ưu tiên của Chính phủ cần là tiếp tục phát huy kinh nghiệm phòng, chống dịch thời gian qua và tạo thêm cơ hội cho thử nghiệm đổi mới sáng tạo thông qua áp dụng những nguyên tắc đúc kết được từ kinh nghiệm kiềm chế COVID-19, đó là ưu đãi để khuyến khích người dân, doanh nghiệp và cán bộ công chức nhà nước; tạo lòng tin của người dân với các nhà hoạch định chính sách; cách thức và thể chế hoạch định chính sách. Những điều này còn phụ thuộc vào cách hành xử của chính Chính phủ trong cung cấp thông tin, truyền thông rõ ràng, minh bạch và sâu rộng, không chỉ về hành động mà cả về kết quả để người dân thấy rằng tất cả đều vì lợi ích chung.

Những ví dụ về cách thức áp dụng các nguyên tắc nêu trên trong nghị trình về môi trường và khí hậu đã được trình bày trong báo cáo. Báo cáo cũng đã nhấn mạnh đến những cải cách, từ chính sách giá cho đến doanh nghiệp nhà nước; cơ chế chia sẻ thông tin minh bạch, giúp xác định, theo dõi các cơ sở gây ô nhiễm và các cơ sở vi phạm nguyên tắc quy định.

Sau cùng, đối phó với thách thức về y tế hay môi trường đều đòi hỏi phải thay đổi hành vi. Cách thức tối ưu và đơn giản để Việt Nam thông tin, tuyên truyền về tính cấp thiết của những thách thức về khí hậu và môi trường là cân nhắc lại việc sử dụng tổng sản phẩm quốc nội (GDP) làm chỉ số đo lường hiệu quả hoạt động kinh tế, hoặc đưa thêm vốn tự nhiên vào khái niệm GDP theo khuyến nghị của Ngân hàng Thế giới. Joseph Stiglitz, cựu kinh tế trưởng của Ngân hàng Thế giới, người đoạt giải Nô-ben Kinh tế từng chia sẻ:“Tìm được chỉ số đúng ít nhất phải tốt hơn là điều hết sức quan trọng, đặc biệt trong xã hội được định hướng theo chỉ số và kết quả đầu ra. Nếu chúng ta chọn sai chỉ số để đo lường, chúng ta sẽ đưa ra quyết định sai. Nếu các chỉ số cho chúng ta thấy mọi thứ đều ổn trong khi thực tế không phải như vậy, chúng ta sẽ trở nên tự bằng lòng với những gì đã đạt được.” và cho rằng, không còn thời gian để tự bằng lòng với những gì đã đạt được ở Việt Nam.

Đôi dòng thay lời kết luận

Phát biểu trong lễ công bố ấn phẩm thường niên Điểm lại, Giám đốc Quốc gia Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam, Carolyn Turk nhấn mạnh  “Việt Nam đang đứng trước bước ngoặt để phục hồi sau COVID-19. Quốc gia này đang có cơ hội để chọn con đường phát triển xanh, thông minh, bao trùm hơn và nhờ đó trở nên vững vàng hơn trước những cú sốc trong tương lai do cả đại dịch và hay thảm họa thiên nhiên,” bà cho biết. “Việt Nam cần xử lý những thách thức về khí hậu và môi trường với tinh thần khẩn trương như đã làm với COVID-19 vì cái giá phải trả từ việc không hành động ngày càng tăng và khó có thể đảo ngược. Đợt bão lụt lịch sử tại miền Trung vừa qua và ô nhiễm không khí tăng lên ở các thành phố trong nước là minh chứng rõ rệt về sự mong manh dễ tổn thương vừa được đề cập.

Những bài học rút ra qua quản lý thành công khủng hoảng COVID-19 có thể được áp dụng để giải quyết tốt hơn các vấn đề môi trường. Hy vọng sẽ được các nhà nghiên cứu và hoạch định chính sách nước nhà xem xét, vận dụng để xây dựng đương lối phát triển bền vững  cho đất nước trong thời gian đến.

Địa chỉ liên lạc               

Lê Thành Ý 19b/668 Đường Lạc Long Quân,  Quận Tây Hồ Hà Nội

 Mob 0829848231;  Email Lethanhy05@gmail.com