Từ vai trò quan trọng của nước trong đời sông và sự phát triển bền vững quốc gia , bài viết đề cập đến vấn đề ô nhiễm và giải pháp quản lý cần được quan tâm
1. Khái quát về tài nguyên nước và những nhân tố ảnh hưởng
Nước là một nguồn tài nguyên tái tạo, được phân thành 2 nhóm chính là nước mặt và nước ngầm. Nguồn nước mặt bao gồm nước biển và các vùng ven bờ (vũng, vịnh, cửa sông và đầm, phá); sông ,suối, kênh rạch là các vùng nước chảy; hồ ao là vùng nước tĩnh; đất ngập nước là những vùng nước ngập theo chu kỳ. Nước ngầm là nước ở dưới mặt đất, trong các kẽ nứt và lỗ rỗng của đá.

Ảnh minh họa nguồn internet
Sự khác nhau về địa lý dẫn tới những khác biệt cả về chất lượng và hệ sinh thái giữa nước mặt và nước ngầm. Chất lượng nước chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố như địa hình đất dai và các hoạt động kinh tế; nước mặt có tính tương tác rộng trong không gian, do vậy dễ bị ô nhiễm. Những vùng nước mặt được đặc trưng bởi các hệ sinh thái đa dạng trong khi nước ngầm lại không có. Do sức khỏe hệ sinh thái ảnh hưởng lớn đến nước măt khiến nước mặt và nước ngầm có những đặc tinh khác nhau (Wikipedia 2020).
Hệ sinh thái nước bao gồm các quần thể sinh vật sống trong môi trường nước,có quan hệ tương tác lẫn nhau và với môi trường. Nhu cầu nước ngày một gia tăng, cầu đã vượt cung, trong khi nhận thức về bảo vệ nguồn nước cho các hệ sinh thái mới được đề cập gần đây.
Vào thế kỷ thứ 20, hơn 1/2 số vùng đất ngập nước cùng với môi trường hỗ trợ có giá trị đã bị biến mất. Những hệ sinh thái nước ngọt đa dạng bị suy giảm nhanh hơn các hệ sinh thái biển và trên đất liền. Vùng đất ven sông có ảnh hưởng lớn đến chất lượng nước, các vùng sinh thái khỏe mạnh được đặc trưng bởi hành lang thực vật dày dặc, giúp ngăn chặn hiệu quả xói lở bờ, giảm dòng chảy tràn trực tiếp xuống sông, góp phần giảm nguy cơ lũ lụt ở phía hạ lưu, lọc được các chất ô nhiễm từ hoạt động nông nghiệp, cung cấp nơi trú ngụ và thức ăn cho các loài động, thực vật sống dọc bờ sông. Nhờ đó, giúp bảo các hệ sinh thái, ổn định bờ và duy trì chất lượng nguồn nước của các lưu vực sông.
Lưu vực sông là vùng đất, trong phạm vi đó cả nước mặt và nước ngầm đều chảy vào. Nước tập trung trong dòng chính sẽ chảy ra cửa sông là điểm ra của lưu vực. Đặc điểm tự nhiên của lưu vực sông và hoạt động phát triển kinh tế của con người ảnh hưởng rất lớn tới số lượng và chất lượng của nguồn nước trong lưu vực.
Theo danh mục lưu vực sông liên tỉnh đã được ban hành, hệ thống sông, suối ,kênh rạch ở nước ta có 3.450 sông, suối dài trên 10km. Trong đó, có 13 hệ thống sông lớn với diện tích lưu vực trên 10.000 Km2. Riêng 8 hệ thống sông chính (Hồng Hà-Thái Bình, Bằng Giang-Kỳ Cùng, Cả-La, Thu Bồn, Ba, Đồng Nai, Cửu Long) chiếm gần 93% diện tích lưu vực sông cả nước và 81,7% diện tích lãnh thổ quốc gia. Đáng lưu ý là10/13 lưu vực sông lớn là sông liên quốc gia với diện tích lưu vực ở ngoài lãnh thổ lớn hơn gấp 3,3 lần phần lưu vực trong nước (CECR 2018, Đào Trọng Tứ 2020).
Theo công ước Liên hợp Quốc về luật biển năm 1982, một quốc gia vùng biển có các vùng là nội thủy, lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa.Trong đó, nội thủy được coi là bộ phận lãnh thổ đất liền. Với diện tích vùng biển thuộc chủ quyền khoảng 1triệu Km2 và vùng nội thủy 4.500 Km2, trải dọc theo bờ biển dài trên 3.260 Km ; cứ 100 Km2 lãnh thổ đất liền, Việt Nam có 1 km bờ biển, tỷ lệ này cao gấp 6 lần mức bình quân chung của thế giới.
Vùng ven biển bao gồm 3 loại hình nước mặt là các vũng, vịnh; cửa sông và đầm phá. Ven biển Việt Nam có 48 vũng, vịnh với tổng diện tích chừng 4.000Km2. Mặc dù diện tích mặt nước ven biển chỉ bằng 1,1% diện tích đất liền, chiếm 0,4% diện tích vùng biển, song các vùng ven đều nằm trong vị trí trọng yếu, vô cùng quan trọng đối với phát triển kinh tế xã hội và an ninh quốc phòng.
Ở Việt Nam, đất ngập nước rất đa dạng với diện tích khoảng 58.100 Km2 chiếm 8% toàn bộ diện tích các vùng ngập nước Châu Á. Đất ngập nước có đặc điểm chung là nước nông, có nguồn dinh dưỡng phong phú với hệ sinh thái đặc thù và tính đa dạng sinh học cao. Đất ngập nước có nhiều khả năng cung cấp sản vật tự nhiên cho con người, nhiều vùng có cảnh quan đẹp, tạo thuận lợi để phát triển dịch vụ vui chơi, giải trí và du lịch.
Dưới sức ép phát triển kinh tế, nhiều vấn đề bất cập trong quản lý môi trường, đặc biệt là ô nhiễm nguồn nước đã xảy ra. Ô nhiễm đã làm biến đổi cảnh quan tự nhiên và phá vỡ cân bằng sinh thái, gây ảnh hưởng nặng nề cả về sức khỏe, môi trường và phát triển kinh tế.
2. Nguồn nước ở Việt Nam thực trạng chất lượng và các nguồn gây ô nhiễm
Tổng lượng nước mặt trên lãnh thổ Việt Nam có từ 830 đến 840 tỷ m3/năm; trong đó, nguồn nội sinh chiếm 37%, 63% nguồn nước đến từ bên ngoài. Nếu chỉ tính nguồn nước nội sinh, bình quân đầu người nước ta chỉ đạt 3.200 m3/năm , thấp hơn mức bình quân chung của châu Á và chưa bằng một nửa so với trung bình toàn cầu.
Nguồn nước ngầm khá phong phú, nhưng phẩn bố không đều trên toàn lãnh thổ, vùng Đông Bắc bộ có trữ lượng hơn 10,2Km3/năm chiếm 21,1% lượng nước dưới đất của cả nước;Vùng Đồng bằng Nam bộ chiếm 17,9%,,Nam Trung bộ 9,7%, trong khi Đông Nam bộ chỉ có 1,2%.
Chất lượng nguồn nước là vấn đề cơ bản để đảm bảo an toàn cho sản xuất và tiêu dùng. Các quốc gia trên thế giới đã xây dựng tiêu chuẩn chất lượng nước theo mục tiêu sử dung khác nhau như nước uống, nước sinh hoạt; nước nuôi trồng các loài thủy sinh; nước phục vụ vui chơi gải trí; nước cho sản xuất nông, công nghiệp và dùng vào những mục đích khác.
Tổng lượng nước được khai thác sử dụng hàng năm ở nước ta khoảng 80,6 tỷ m3, chiếm 10% tổng lượng dòng chảy; trong đó, khoảng 65 tỷ m3 (80%) dùng cho sản xuất nông nghiệp, nước sử dụng trong ngành công nghiệp khỏng 7,5 tỷ m3/năm. Cả nước có 4.500 hệ thống cấp nước lớn, nhỏ phục vụ đô thị và các vùng nông thôn với tổng công suất thiết kế trên 10,9 triệu m3/ngày (Lê Việt Hoa 2020)
Với hệ thống sông, suối dày dặc, nguồn nước ở Việt Nam tương đối dồi dào, song dòng chảy nội địa trong mùa cạn chỉ đạt từ 310 dến 315tỷ m3/năm. Khả năng cấp nước của hệ thống sông cả nước chỉ đạt từ 350 đến 1.000 m3/người/năm. Với mức bình quân dưới 1.000m3 /người/năm, khan hiếm nước sẽ càng trở nên trở nên nghiêm trọng(căng thẳng về nước xảy ra nếu lượng nước cung cấp hàng năm dưới 1.700 m3/người/năm, dưới 1.000 m3/người/năm phải đối mặt với khan hiếm nước) (CECR 2008).
Tiêu chuẩn chất lượng nước được xây dựng dựa vào các chỉ tiêu hóa lý, hóa sinh thể hiện mức độ ô nhiễm hữu cơ và ô nhiễm chất dinh dưỡng; tiêu chí vật lý, vi khuẩn gây bệnh và kim loại độc hại, Trong đó, chất lượng nước sạch tối thiểu cần đảm bảo chỉ tiêu vi khuẩn gây bệnh và kim loại độc phải thấp hơn tối đa mức cho phép. Nước sạch được xác định là nước có chất lượng cho bảo vệ và đảm bảo sự sinh sôi của các loài cá, nhuyễn thể, thủy sinh, động vật hoang dã và cho các hoạt động giải trí của con người .
Ở nước ta, chất lượng nước được phân theo quy chuẩn quốc gia QCVN 08/2015/BTNMT với 36 thông số khác nhau được phân thành 2 nhóm theo mục đích sử dụng. Nhóm A gồm có A1 dùng cho mục đích cấp nước sinh hoạt và bảo tồn động, thực vật thủy sinh; A2 sử dụng cho mục đích cấp nước sinh hoạt, nhưng phải sử dụng công nghệ xử lý thích hợp. Nhóm B gồm B1 sử dung cho mục đích tưới tiêu, thủy lợi và có yêu cầu chất lượng tương tự và B2 dùng cho mục đích giao thông thủy và những mục đích có yêu cầu chất lượng thấp hơn.
Chất lượng nước ở Việt Nam đang phải đối mặt với xu thế suy thoái nghiêm trọng. Ở cả 63 tỉnh, thành phố lớn trong cả nước,ô nhiễm nước luôn là vấn đề bức xúc và nổi cộm. Nước mặt trên các sông, ngòi, kênh rạch và đặc biệt ở các vùng đô thị và khu công nghiệp đã bị suy thoái tới mức biến chất, gây nguy hiểm cho người và sinh vật thủy sinh. Nhiều con sông lớn trên địa bàn cả nước nằm trong tình trạng báo động ô nhiễm. Cùng với ô nhiễm của các dòng sông, chất lượng nước của nhiều vùng ven biển cũng suy thoái trầm trọng, dẫn đến thảm họa cá chết phổ biến ở nhiều nơi.
Dễ dàng nhận thấy, quá trinh thúc đẩy nhanh công nghiệp hóa và đô thị hóa đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường, khiến chất lượng nước suy giảm mang tính rộng khắp. Ở nhiều địa phương, ô nhiễm nguồn nước hầu như nằm ngoài vòng kiểm soát và phụ thuộc theo khả năng xác định vị trí và quy mô nguồn ô nhiễm, bao gồm cả ô nhiễm điểm và ô nhiễm diện.
Ô nhiễm điểm diễn ra đơn lẻ từ các nhà sản xuất, cơ sở xử lý nước thải phát tán trong một phạm vi nhất định; còn ô nhiễm diện là ô nhiễm trên phạm vi rộng, bao gồm cả nước mưa mang theo chất ô nhiễm chảy tràn vào các sông hồ kênh, rạch, vùng nước biển hoặc thẩm thấu vào tầng nước ngầm trong lòng đất.
Nước thải trong sản xuất công nghiệp có thành phần cơ bản phụ thuộc theo từng lĩnh vực sản xuất. Tại những nhà máy giấy và bột giấy, nước thải mang tinh kiềm cao (độ pH trung bình từ 9 đến 11), nhu cầu oxy sinh hóa (BOD) lên đến 700mg/l và oxy hóa học (COD) tới 2.500mg/l,vượt nhiều lần tiêu chuẩn cho phép của ngành (CECR 2020).Quá trình rà soát các nhà máy hóa chất của Cục Hóa chất bộ Công Thương cũng đã chỉ ra, những cơ sở phát sinh lượng lớn nước thải với chất lượng vượt quá tiêu chuẩn cho phép là những tác nhân gây ô nhiễm môi trường nước. Theo BộTài nguyên và Môi trường, trong cả nước có khoảng 89% khu công nghiệp hoạt động đã và đang xây dựng hệ thống xử nước thải tập trung, còn nhiều nhà máy xả nước thải trực tiếp ra môi trường. Ước tính, 70% lượng nước thải trong các khu công nghiệp đã xả thẳng ra nguồn tiếp nhận không qua xử lý.
Ngoài nước sử dụng trong sản xuất công nghiệp gây ô nhiễm, trong khai thác mỏ và chế biến khoáng sản cũng phát sinh lượng lớn nước thải chảy tràn trên các khai trường, dồn xuống các vùng chứa nước, gây tác động tiêu cực đối với chất lượng nguồn nước. Vùng nước mặt tại các vùng than thường có hàm lượng ion kim loại nặng, á kim, hợp chất hữu cơ độc hại và các nguyên tố phóng xạ cao hơn từ 1 đến 3 lần so với khu vực không có mỏ than. Tại những mỏ thiếc sa khoáng, vùng nước mặt thường bị đục bởi bùn sét lửng, do sự gia tăng hàm lượng ion sắt và khoáng vật nặng. Việc khai thác tuyển quặng vàng phải dùng thuốc tuyển chứa thủy ngân (Hg) Xyanua (CN) và các nguyên tố hóa học cộng sinh như asen, anti moan, quặng sắt sunfua dễ hòa tan và để lại những tồn dư độc hại trong nước.
Làng nghề là một đặc thù của nông thôn Việt Nam. Giữa thập niên 2010-2020 cả nước có trên 5.090 làng nghề, tập trung chủ yếu ở vùng Đồng bằng sông Hồng, Bắc Trung bộ và Duyên hải miền Trung. Kết quả điều tra cho thấy, lượng nước thải chưa được xử lý bình quân hàng ngày lên tới 15 nghìn m3 xả thẳng vào các kênh mương, ao hồ (Đặng Kim Chi).
Đặc trưng nước thải làng nghề phụ thuộc chủ yếu vào công nghệ và nguyên liệu sản xuất. Trong đó, chế biến lương thực, chăn nuôi, giết mổ gia súc gia cầm là những ngành tiêu tốn và thải ra lượng nước lớn nhất với hàm lượng ô nhiễm hữu cơ rất cao. Những ngành tái chế, chế tác kim loại, đúc đồng tuy sử dụng nước không nhiều nhưng trong nước thải lại chứa nhiều thành phần rất độc hại như hóa chất, xyanua, kim loại nặng, chì và axit.
Quá trình đô thị hóa mở rộng đã làm lượng nước thải sinh hoạt đổ vào các dòng sông gia tăng nhanh. Nước thải sinh hoạt đã chiểm trên 30% tổng lượng nước thải trực tiếp vào các sông,hồ, kênh rạch. Đáng quan ngại là 90% lượng nước thải sinh hoạt đô thị đã xả thẳng vào môi trường không qua xử lý. Đây là tình trạng dẫn đến ô nhiễm nghiêm trọng sông hồ,bức tử nhiều dòng chảy, gây bức xúc xã hội nhưng vẫn chưa được giải quyết triệt để.
Cả nước hiện có 883 đô thị, gồm‘2 đô thị đặc biệt, 20 đô thị loại I, 29 thị loại II, 45 đô thị loại III, 85 đô thị loại IV, 652đô thị loại V. Trong số này, có trên 100 đô thị là trung tâm kinh tế xã hội quan trọng của các vùng miền. Dân số đô thị gia tăng kéo theo lượng nước thải tăng lên đáng kể và tình trạng ô nhiễm nguồn nước càng trở nên trầm trọng hơn.Cùng với ô nhiễm đô thị, các vùng sản xuất nông nghiệp và khu vực dân cư nông thôn cũng tạo nên những nguồn ô nhiễm khó kiểm soát.
Sản xuất nông nghiệp sử dụng lượng lớn thuốc bảo vệ thực vật và phân hóa học khác nhau. Ngoài một phần đượchấp thụ chuyển thành chất dinh dưỡng, phần còn lại chứa đựng lượng lớn ni tơ (N), phốt pho (P), kali (K) và những chất độc hại khác bị rửa trôi, theo nước mưa chảy vào các vùng nước mặt và thẩm thấu vào tầng nước ngầm trong lòng đất. Cùng với những tồn dư độc hại của trồng trọt, chất thải chăn nuôi không tập trung, nước từ bể phốt cũng dễ dàng bị rửa trôi theo nước mưa chảy vào hệ thống kênh mương và thấm sâu vào lòng đất. Đây là những nguồn ô nhiễm rất khó kiểm soát.
Kết quả điều tra của FAO cho thấy, hiệu quả sử dụng phân bón hóa học ở Việt Nam mới đạt 45-50% đông nghĩa với 100kg Ure hoặc NPK bón vào đất sẽ có từ 50 đến 55 kg tồn dư trong đất, là những tác nhân gây ô nhiễm môi trường đất và nước. Cùng với tồn dư độc hại của phân hóa học, lương thuốc trừ sâu độc hại sử dụng ngày một tăng cao. Ngoài lượng thuốc nhập khẩu tăng mạnh (từ 2 vạn tấn lên 5 vạn tấn trong thời gia từ 2005 đến 2014), cả nước có 97 nhà máy chế biến thuốc trừ sâu với công suất từ 3 đến 4 vạn tấn/năm. Đây cũng là những tác nhân gây ô nhiễm lâu dài đối với môi trường cả trong đất, nước và không khí.
Ngành chăn nuôi cả nước hiện có trên 8,5 triệu hộ chăn nuôi quy mô gia đình, hơn 218 nghìn trang trại chăn nuôi tập trung, song trên 23% số hộ chăn nuôi xả chất thải trực tiếp ra các kênh, mương, ao hồ gây ô nhiễm trầm trọng nguồn nước. Ước tính,mỗi năm ngành chăn nuôi thải ra trên 73 triệu tấn chất thải. Việc quản lý ngày càng khó khăn; chất thải chăn nuôi đã và đang trở thành tác nhân gây ô nhiễm nghiêm trọng nguồn nước cả trên mặt và trong lòng đất,. Với 134 mẫu nước giếng khoan kiểm tra, có 23% bị nhiễm bẩn hữu cơ vượt mức cho phép và số bị nhiễm vi sinh vật vượt mức cho phép đã lên tới 42,3% (CECR2020).
Nuôi trồng thủy sản là một trong những ngành có nhiều lợi thế, song môi trường nuôi trồng lại là vấn đề nổi cộm ở các vùng nuôi tôm và cá da trơn. Để có được 1kg cá tra thành phẩm, người nuôi phải sử dụng 3,5kg thức ăn, nhưng chỉ có 17% lượng thức ăn được cá hấp thụ, phần còn lại tồn dư trong nước trở hành nguồn thải hữu cơ chảy tràn vào hệ thống nước mặt. Bùn thải chưa nguồn thức ăn dư thừa bị thối rữa cùng với hóa chất, khoáng vật và lưu huỳnh lắng đọng trở thành những tác nhân gây ô nhiễm nghiêm trọng nguồn nước
3. Tác động và những thiệt hại của ô nhiễm nước đến phát triển bền vững
Mục tiêu phát triển bền vững được xác đinh nhằm vào đảm bảo sự phát triển hài hòa của 3 trụ cột bền vững cả về khinh tế, xã hội và môi trường. Từ quan điểm này, tác động của ô nhiễm nước đến phát triển kinh tế xã hội cần được xem xét dưới góc độ ảnh hưởng đến sức khỏe con người và nền kinh tế.
3.1. Ảnh hưởng ô nhiễm nguồn nước đối với sức khỏe con người.
Tác động bất lợi của nước đối với sức khỏe con người có thể thông qua nước uống bị ô nhiễm, thực phẩm là thức ăn nuôi trồng trong nước ô nhiễm hoặc tiếp xúc với môi trường nước ô nhiễm trong quá trình lao động. Tác hại đối với sức khỏe con người, chủ yếu do môi trường nước bị ô nhiễm vi sinh vật gây bệnh, ô nhiễm các hợp chất hữu cơ, các hóa chất độc hại và ô nhiễm kim loại nặng.
Những vi sinh vật có hại như vi khuẩn, virus và ký sinh trùng có nguồn gốc từ chất thải sinh hoạt của người và động vật, có thể gây nhiều loại bệnh như tả, lỵ, thương hàn, viêm nhiễm, rối loạn tiêu hóa, ngộ độc thức ăn, nước uống và những bệnh liên quan đến giun, sán.Trong môi trường nước, các loài vi sinh vật dễ phát tán, lây lan làm cho dịch bệnh dễ lan rộng. Theo các nhà nghiên cứu, trên thế giới có trên 300 loại bệnh lây truyền qua đường nước.
Ở nước ta, tình trạng ô nhiễm nguồn nước do quá trình sản xuất công nghiệp, nông nghiệp và trong sinh hoạt của người dân diễn ra khá phổ biến đã ảnh hưởng đến sức khỏe người dân, đồng thời làm gia tăng nguy cơ mắc các bệnh truyền nhiễm, nhất là bệnh ung thư.
Tư liệu thống kê của Bộ Y tế cho thấy, gần 1/2 trong số 26 bệnh truyền nhiễm có nguyên nhân liên quan đến nguồn nước bị ô nhiễm. Ðiển hình là bệnh tiêu chảy cấp, dịch tả, thương hàn, đau mắt đỏ, các bệnh về đường tiêu hóa, viêm gan A, viêm não, ung thư. Theo các nhà phân tích,từ 40% đến 50% trường hợp ung thư, viêm nhiễm phụ khoa là do sử dụng nguồn nước ô nhiễm. Bộ Y tế và Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam từng nhận định, do nguồn nước bị ô nhiễm và kém vệ sinh, hàng năm đã có hàng nghìn người chết và trên 100 nghìn trường hợp mắc ung thư (Dương Danh Mạnh 2014)
Tổ chức Y tế Thế gới (WHO) và UNICEF xác nhận, tử vong do các bệnh phát sinh từ ô nhiễm nước ở Việt Nam chiếm tới 3% tỷ lệ tử vong của cả nước.Khảo sát thực tế còn cho thấy, ở nhiều vùng, người dân còn phải sử dụng những nguồn nước ô nhiễm để sản xuất nông nghiệp, không chỉ gây nguy cơ bệnh truyền nhiễm cao đối với người lao động trực tiếp mà còn cả đối với người tiêu dùng lương thực, thực phẩm. Một số nghiên cứu đã chỉ ra, tỷ lệ mắc bệnh về tiêu hóa tại các vùng ven sông nước bị ô nhiễm thường cao hơn nhiều lần so với các vùng không bị ảnh hưởng (CECR 2020).
Ngoài ô nhiễm vi sinh , ô nhiễm kim loại do nước bị ô nhiễm hóa học cũng rất nặng nề. Kim loại độc hại như chì, thủy ngân khi ở trong nước tích lũy trầm tích, rất khó xử lý; có thể xâm nhập vào chuỗi thức ăn thông qua các loài cá và nhuyễn thể, phá vỡ hệ sinh thái và gây những thảm họa môi trường, gắn với những bệnh hiểm nghèo như ung thư, dị tật bẩm sinh, để lại di chứng cho nhiều thế hệ.
Các chất hữu cơ tổng hợp bao gồm thuốc bảo vệ thực vật, thuốc kích thích tăng trưởng, phụ gia dược phẩm và thực phẩm nhất là các hydrocacbon thơm, thường độc hại và có độ bền sinh học cao gây ảnh hưởng đến sức khỏe con người. Các chất hữu cơ này có thể gây nhiễm độc mạn tính với nhiều bệnh hiểm nghèo như ung thư gan, thận, phổi, tiêu hóa,bàng quang và cả hệ thống thần kinh. Nguồn nước ô nhiễm được sử dụng trong nông nghiệpViệt Nam có thể dẫn đến nguy cơ phơi nhiễm chất độc hại, gây hệ lụy về sức khỏe đối với con người’
Theo thống kê của ngành y tế, giai đoạn 2006-2010 ở nước ta có tới 6 triệu ca bệnh liên quan đến ô nhiễm nước và chi phí điều trị những ca bệnh này đã vượt qua 400 tỷ VNĐ. Ngoài chi phí trực tiếp cho người bệnh, những bệnh nhân này còn ảnh hưởng trực tiếp đến thân nhân, kéo theo tâm lý bất ổn, khó tập trung trong học tập và lao động, gây hậu quả bất lợi cả về kinh tế và tinh thần.
3.2. Ảnh hưởng và thiệt hại của ô nhiễm nước đến nền kinh tế
Ô nhiễm nguồn nước làm gián đoạn chuỗi thực phẩm, phá vỡ cấu trúc hệ sinh thái gây ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất nông nghiệp, các nguồn lợi tự nhiên và trong du lịch dịch vụ.
Đối với sản xuất nông nghiệp
Phó Chủ tịch Ngân hàng Thế giới, Laura Tuck nhận xét, tăng trưởng nông nghiệp đóng vai trò quan trọng trong việc cải thiện an ninh lương thực và đưa hàng triệu người ở Đông Nam Á thoát khỏi nghèo đói. Tuy nhiên, mức tăng trưởng này cũng đi kèm với ô nhiễm đất, nước, không khí chưa từng có ở khu vực. Đầu tư ngăn chặn và kiểm soát ô nhiễm là điều quan trọng để đảm bảo lợi ích từ phát triển nông nghiệp bền vững (Phương Hoài 2018).
Việt Nam đã phải trả giá đắt bởi ô nhiễm môi trường trong những năm qua. Ở các vùng trồng trọt thâm canh, nông nghiệp đã trở thành nguyên nhân gây ô nhiễm đất, nước và không khí. Hàm lượng thuốc sâu và hóa chất độc hại quá mức trong thực phẩm cũng ảnh hưởng nặng nề tới tiêu thụ trong nước và tiếp cận thị trường quốc tế.
Những tư liệu thống kê đã chỉ ra, 90% lượng nước thải sinh hoạt đô thị Việt Nam xả thẳng ra môi trường không qua xử lý khiến các sông hồ trong tình trạng ô nhiễm trầm trọng. Một số nguồn gây ô nhiễm nước khác còn do sử dụng quá mức lượng phân bón, thuốc trừ sâu trong sản xuất nông nghiệp; nguồn nước tưới ô nhiễm đã làm năng suất cây trồng giảm sút nghiêm trọng. Cho đến nay, 20% số hộ dân cả nước còn phải dùng nguồn nước ao, hồ, kênh rạch bị ô nhiễm.
Tại Việt Nam, mặc dù, diện tích sản xuất nông nghiệp giảm, nhưng năng suất liên tục tăng cao cùng với sử dụng nhiều thuốc trừ sâu và phân bón hóa học. Hầu hết nông dân trồng lúa đều sử dụng phân bón và thuốc bảo vệ thực vật (BVTV) nhiều hơn mức được khuyến nghị. Mỗi năm có khoảng 1.790 tấn hoạt chất thuốc diệt ốc sên, 210 tấn hoạt chất thuốc diệt cỏ, 1.225 tấn hoạt chất thuốc trừ sâu và 4.245 tấn thuốc diệt nấm được sử dụng dư thừa trong sản xuất lúa ở ĐBSCL. Riêng ở tỉnh An Giang và Kiên Giang, nông dân trồng lúa đã sử dụng lượng phân hóa học nhiều hơn từ 20% đến 30% so với mức khuyến cáo. Lượng hóa chất và thuốc BVTV dư thừa là một trong những nguyên nhân quan trọng làm suy giảm chất lượng đất, nước trong khu vực.
Cùng với sản xuất lương thực, hoạt động nuôi trồng thủy sản cũng là nguồn gây ô nhiễm đáng kể môi trường sông nước.Trong vùng đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) tổng diện tích nuôi thủy sản nước ngọt, nước mặn lên trên 685.800 ha (chiếm 60% của cả nước) Riêng. lượng nước thải nuôi trồng thuỷ sản phát sinh tại tỉnh An Giang cao nhất đã lên tới 70.000 m3/ngày đêm . Đáng quan ngại là, bùn phù sa lắng đọng trong ao nuôi trồng thủy sản thải ra hàng năm lại là nguồn gây ô nhiễm nặng nề. Do nước thải nuôi trồng thủy sản chưa được kiểm soát, trực tiếp xả ra môi trường đã gây tác động đáng kể đến chất lượng nước, tôm cá . chết thường xảy ra, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến kinh tế nuôi trồng (Mai Chi 2019)..
Thiệt hại về kinh tế trong sản xuất nông nghiệp tại những khu vực chịu ảnh hưởng của ô nhiễm nước thải là khá lớn, làm giảm chất lượng cuộc sống , gây thiệt hại đến kinh tế địa phương, đồng thời cũng làm giảm đấng kể GDP của cả nước.
Ô nhiễm nguồn nước ảnh hưởng đến năng suất và chất lượng nông sản ở những mức độ khác nhau. Nơi ô nhiễm ít năng suất giảm khoảng 20%, nơi ô nhiễm nhiều tới 70%-80%. Nhiều ruộng cấy lúa bị ô nhiễm nặng, năng suất chỉ còn trên dưới 1 tấn /ha. Tại Hưng Long và Dị Sử thuộc huyện Mỹ Hào (Hưng Yên), diện tích lúa bị ảnh hưởng bởi ô nhiễm lên tới 500 ha và năng suất đã sụt giảm tời 30-40%, Theo ước tính,với giá bán lúa 6.000VNĐ/kg, nếu thiệt hại 8% năng suất, người trồng lúa bị thiệt hại 6,72 triệu VNĐ/ha.năm. Nhiều vùng bị ô nhiễm nặng, phải bỏ hoang hóa , thiệt hại hàng năm lên 84 triệu VNĐ/ha đối với đất 2 vụ lúa và tới 126 triệu VNĐ/ha đối với đất 3 vụ (CECR2020)
Tại xã Mẫn Xá, huyện Yên Phong (tỉnh Bắc Ninh)nơi bị thiệt hại ô nhiễm nặng, tổn thất kinh tế đã lên tới 3,9 tỷ VNĐ/năm. Ở 2 huyện Yên Phong (Bắc Ninh) và Mỹ Hào (Hưng Yên) do diện tích bị ảnh hưởng rộng, thiệt hại đã lên tới12,6 TỷVNĐ/năm.Đặc biệt, ở ấp Lình Huỳnh huyện Hòn Đất (Kiên Giang), tới 180 ha diện tích chịu ảnh hưởng với mức thiệt từ 80% đến 100% thiệt hại cả năm đã lên gần 22,7 tỷ VNĐ(CECR 2020).
Trong nuôi trồng thủy sản
Mức độ thiệt hại của nuôi trồng thủy sản phụ thuộc vào ô nhiễm môi trường nước. Ở mức độ nhẹ giảm hiệu quả sản xuất, giảm lợi nhuận của người nuôi; ở mức độ cao có thể dẫn đến hiện tượng thủy sinh chết hàng loạt, gây thiệt hại không chỉ với từng hộ mà còn đối với cả vùng nuôi rộng lớn. Do tăng chi phí đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, sử dụng thêm hóa chất và chế phẩm sinh học để cải tạo môi trường nuôi; mặt khác, thủy sinh nuôi chậm lớn, thời gian nuôi kéo dài làm tăng chi phí sản xuất, giảm khả năng cạnh tranh và giá bán không đáp ứng được nhu cầu thị trường. Trên cơ sở tư liệu hiện có, có thể ước lượng được thiệt hại trong nuôi cá tra, tôm thẻ chân trắng, tôm sú và những loài nhuyễn thể
Đối với sản phẩm cá tra. Nhiều phân tích cho thấy, trong cơ cấu giá thành sản phẩm, thức ăn chiếm 86%; thuốc thú y, hóa chất 2,5%, lao động 2% và nhiên liệu khoảng 0,7%.Nếu phải bơm nước bị ô nhiễm, chi phí nhiên liệu tăng lên 1% thì giá 1 kg sản phẩm tăng thêm 50VN, còn tăng thuốc thú y và hóa chất để xử lý ô nhiễm, chi phí lên đến 3% thì giá thành 1kg sản phẩm tăng thêm 85VNĐ. Như vậy, giá thành 1kg sản phẩm tăng thêm trên 135 VNĐ. Với sản lượng 1,2 triệu tấn /năm, chi phí ngành hàng phải tăng ít nhất 162 tỷ VNĐ (CECR 2020).
Tương tự như cá tra. cơ cấu giá thành của tôm thẻ chân trắng nuôi ở Long Phú (Sóc Trăng ) được xác định với chi phí thức ăn chiếm 51%, con giống 16%, xử lý thuốc và hóa chất 5%. Khi môi trường nước có dấu hiệu ô nhiễm, chi phí xử lý có thể tăng lên 6% đồng nghĩa với tăng thêm 750 VNĐ cho 1kg tôm thành phẩm. Với sản lượng trên 400 nghìn tấn/năm, chi phí bổ sung cho ngành hàng này đã vượt qua trên 300 tỷ VNĐ.
Cũng như tôm chân trắng và cá tra, các hộ nuôi tôm sú cũng phải tăng chi phí cho sử dụng nguồn nước. Trong cơ cấu giá thành sản phẩm tôm sú, thức ăn chiếm 60%, giống 7%,thuốc và hoá chất tới 12%. Nếu chi phí thuốc và hóa chất xử lý ô nhiễm lên 13%, mỗi Kg sản phẩm phải chịu thêm chi phí 1.500VNĐ. Với sản lượng 200 nghìn tấn /năm, hàng năm ngành hàng tôm sú phải chi thêm 300 tỷ VNĐ (CECR2020)
Đối với những loài nhuyễn thể. Chi phí nuôi nghêu chủ yếu là tiền mua con giống và công lao động san và quản lý bãi nuôi. Thiệt hại do ô nhiễm môi trường nuôi nghêu. dao động từ 10 đến 12% giá trị sản phẩm. Với giá thị trường khoảng 28.000VNĐ/kg, thiệt hại 10% tương đương với 18.000 tấn sản phẩm, trị giá trên 504 tỷ VNĐ
Thống kê những vụ cá, tôm chết hàng loạt do chất lượng nước không đảm bảo từ năm 2010 đến 2016 cho thấy tổng số thiệt hại đã lên tới 1.042 tỷ VNĐ. Theo các nhà nghiên cứu, đây mới chỉ là phần nổi của tảng băng chìm, bởi trên thực tế còn rất nhiều thiệt hại mà các phương tiện quản lý ngày nay chưa thống kê được (CECR2020).
4. Xây dựng chính sách quản lý ô nhiễm môi trường nước công việc cần làm
Nguồn nước có vai trò đặc biệt quan trọng trong hỗ trợ cuộc sống, sinh kế và phát triển kinh tế xã hội. Đối mặt với ô nhiễm nước ở mọi nơi trên trái đất, đòi hỏi phải có cách tiếp cận dài hạn theo một chiến lược tổng thể dựa trên nền tảng khoa học môi trường và hệ thống pháp lý chặt chẽ. Để đẩy lùi vấn nạn ô nhiễm, cần bắt đầu từ việc can thiệp sao cho chất gây ô nhiễm ở mức thấp nhất.
Ô nhiễm nước bắt nguồn từ các loại rác thải, nước thải sinh hoạt và từ hoạt động sản xuất, nước mưa chảy tràn chứa dư lượng thừa của thuốc trừ sâu và phân bón trong sản xuất nông nghiệp. Ô nhiễm đến từ hành vi của con người; Có bao nhiêu ngành sản xuất là có bấy nhiêu loạiác thải và nước thải. Tính phức tạp của hành vi xả thải và trách nhiệm trước hành vi của con người đòi hỏi quy định pháp luật về kiểm soát phải chặt chẽ và nghiêm minh.
Cuộc chiến với ô nhiễm nước là một quá trình lâu dài,đòi hỏi phải có một lộ trình khoa họcvới sự chỉ đạo quyết liệt của lãn đạo nhà nước và sự đồng thuận tham gia của toàn xã hộiKiểm soát ô nhiễm nguồn nước phải trong khuôn khổ luật pháp; hoạt động này đặc biệt khó khăn khi công nghệ xử lý nước thải còn yếu và thiếu hiệu quả .
Để kiểm soát và bảo vệ chấtlượng nguồn nước cần đưa lĩnh vực này vào danh mục ưu tiên, xuất phát từ góc nhìn cần được bảo vệ với mục tiêu ngăn ngừa và xử lý tốt chất gây ô nhiễm thải vào nguồn nước
Theo các nhà luật pháp, việc xây dựng Luật kiểm soát ô nhiễm nước về cơ bản cần tập trung vào những điều khoản có liên quan hiện còn nằm rải rác ở nhiều bộ luật khác nhau, cần cải cách lại trên cơ sở lồng ghép theo cách nhìn từ đối tượng thực thi Luật dưới góc độ bảo tồn nguồn nước và đảm bảo tính hiệu quả và các hoạt động trực tiếp nhằm thực thi việc kiểm soát cả về ô nhiễm điểm và diện. Các hoạt động kiểm soát ô nhiễm cần gắn chặt với việc giám sát chất lượng nước theo tiêu chuẩn lý hóa và sinh học. Những hoạt động này cần được hỗ trợ bằng các chính sách quốc gia về nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ; bằng các chính sách tài chính và đầu tư công, chính sách cán bộ và nguồn nhân lực, chính sách về sự tham gia có trách nhiệm và nghĩa vụ của mọi người dân; đăc biệt là các hoạt động nâng cao nhận thức cộng đồng và chính sách bảo vệ đặc thù đối với các vùng sông biển có giá trị đặc thù và các khu bảo tồn đất ngập nước.
Thay cho lời kết
Luật kiểm soát ô nhiễm nước giúp tập trung hóa việc bảo tồn và tạo nguồn nước. Đó là cơ sở nền tảng để bảo vệ nguồn nước và nền sinh thái cho toàn bộ sự sống của dân tộc.Một hệ thống nước lành mạnh sẽ bảo vệ được dòng máu khỏe mạnh giúp cho sự lớn mạnh của muôn loài, tạo sự lớn mạnh cho cả quốc gia.
Nếu xây dựng được Luật kiểm soát môi trường nước sẽ giúp công tác kiểm soát ô nhiễm vốn bị chi phối bởi nhiều bộ luật khác,sẽ tập trung hơn; tạo thuận lợi cho việc thực thi mang tính chuyên nghiệp, khoa học hơn. Xu hướng này sẽ góp phần giảm thiểu các vụ xâm hại, hủy diệt các hệ sinh thái nước, giảm sự chồng chéo về kiểm soát giữa các cơ quan chức năng, góp phần vào tăng cường và nâng cao hàm lượng khoa học công nghệ trong quản lý ô nhiễm nước.’Qua đó, có thể thúc đẩy mạnh việc xử lý nước thải phát triển như một ngành công nghiệp tạo việc làm và tăng trưởng của đất nước.
Địa chỉ liên lạc
Lê Thành Ý : 19b/668 Lạc Long Quân - Tây Hồ- Hà nội.
Phone: 0913393222
Email: lethanhy05@gmail.com
Tài liệu tham khảo
Wikipedia (2020) Tài nguyên nước: https://vi.wikipedia.org/wiki/T%C3%A0i_nguy%C3%AAn_n%C6%B0%E1%BB%9B truy cập 14/11 CECR (2018)
Báo cáo nghiên cứu ô nhiễm nước và sự cần thiết phai xây dựng luật kiểm soát ô nhiễm nước tại Việt Nam; Hà nội tháng 2 .
Đào Trọng Tứ (2020). Tài nguyên nước của Việt Nam
Hội thảo An ninh nước vì sự phát triển bền vững của việt Nam; Hà nội 29 tháng 10
Lê Việt Hoa (2020) An ninh nguồn nước, thách thức và giải pháp
Hội thảo thường niên các tổ chức xã hội 2020; Hà Nội ngày 29 tháng 10
Dương Danh Mạnh (2014) Ô nhiễm nguồn nước và vấn đề sức khỏe: https://nhandan.com.vn/tin-tuc-y-te/o-nhiem-nguon-nuoc-va-van-de-suc-khoe-216020/Thứ Bảy, 18-10-2014,
Phương Hoài (2018) Việt Nam quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề ô nhiễm trong nông nghiệp : https://www.thiennhien.net/2018/03/24/viet-nam-la-quoc-gia-chiu-anh-huong-nang-ne-o-nhiem-trong-nong-nghiep/ 24/3/2018
Mai Chi 2019) .Đồng bằng sông Cửu Long: Báo động nước thải nông nghiệp